Share

IIT: CẤU TRÚC RÕ RÀNG

IIT: CẤU TRÚC RÕ RÀNG

Tòa nhà Nghiên cứu Khoáng sản và Kim loại ( the Minerals and Metals Research Building) là dự án đã hoàn thành đầu tiên của Mies trong khuôn viên của Học viện Công nghệ Illinois (IIT), được thiết kế và xây dựng từ 1941 đến 1943. Tòa nhà đã gây được nhiều tiếng vang khi sử dụng bộ khung thép mà nhiều người cho rằng nó trông giống như những bức tranh của họa sĩ Piet Mondrian. Tuy nhiên, Alison và Peter Smithson đã khám phá ra một điều tuyệt vời hơn là bố cục tuyến tính, khi họ gọi sơ đồ mặt ngoài của cấu trúc bên trong này là sự khởi đầu cho ‘bài thơ về các thành phần “được lắp ráp”‘ của Mies, nhờ nó mà Mies đã trở nên nổi tiếng.

Việc sử dụng dầm chữ I và dầm chữ H cho cả khung xương và khung bao đã mang đến cho ông một biểu hiện cấu trúc không khác gì bộ khung của những ngôi nhà và nhà kho thời trung cổ ở Đức. Giữa những năm 1920, Raoul H Francé và Werner Linder đã coi công trình của Mies là chuẩn mực cho các tòa nhà công nghiệp hiện đại. Nhận được sự ủng hộ, Mies tiếp tục phát triển các công trình theo hướng đó với hai dự án đầu tiên là Tòa Thư viện và Hành chính (Library and Administration Building) và Tòa nhà Hội sinh viên (Student Union). Cả hai tòa đều được thiết kế năm 1944 nhưng chưa được xây dựng. Sau đó là những công trình đầu tiên được xây dựng của ông về ‘giải pháp chung cho các vấn đề mới’ gồm Tòa nhà Hải quân (Alumni Memorial Hall, 1945-6) và Tòa nhà Kỹ thuật Hóa chất và Luyện kim (the Metallurgical and Chemical Engineering Building, 1946-7).

Minerals & Metals Research Building (1942-43) nhìn từ phía đông nam / Ảnh: Michael Dant

Khi những quảng cáo tràn lan trên các tạp chí chuyên nghiệp tuyên bố rằng ‘Nước Mỹ sống bằng thép’ và các bài báo ca ngợi nhiều tính năng cũng như tính ứng dụng của vật liệu này, thật kỳ lạ khi trải nghiệm ban đầu của Mies ở Mỹ đã củng cố niềm tin của anh ấy rằng ‘miễn là chúng ta có cùng một cấu trúc kinh tế và khoa học, thì thép sẽ là yếu tố cốt lõi ở các thành phố của chúng ta’. Với kinh nghiệm sử dụng khung thép cho các tòa nhà ở châu Âu, Mies giờ đây đã làm cho sự hiện diện của nó có vai trò quan trọng, được nhiều kiến trúc sư khác làm theo, ví dụ như Ludwig Hilberseimer đã áp dụng trong Tòa nhà Chicago Tribune (1922) và Văn phòng của Max Taut cho Allgemeiner Deutscher Gewerkschaftsbund (Tổng Liên đoàn Công đoàn Đức) tại Berlin (1922-3). Nhà máy Tơ lụa Verseidag ở Krefeld (1934-5) do Mies thiết kế cũng đi theo hướng này, khung thép được lấp đầy bằng những ô cửa kính và tường gạch mà không để lộ thép hoặc khối xây.

Thư từ trao đổi giữa Mies và các kiến ​​trúc sư của Holabird & Root đã hợp tác với ông tiết lộ rằng ban đầu Mies muốn sử dụng một mạng lưới các cột hình chữ thập cho Tòa nhà Nghiên cứu Khoáng sản và Kim loại như cách làm tiêu chuẩn của ông trong những năm 1930. Tuy nhiên, tải trọng của nhịp 19,2 mét (63 foot) và cần cẩu 5 tấn của xưởng đúc đã yêu cầu giải pháp cấu trúc cho một thiết kế mạnh mẽ hơn. Bắt vít dầm thép cuộn I một cách cẩn thận vào cột thép I đạt được sự uốn cong cứng liên tục giúp truyền lực trôi chảy hơn. Lớp vỏ được đặt bên ngoài khung thép để tạo ra các dải gạch và kính mờ nằm ​​ngang không bị ngắt quãng, được kết nối ngược trở lại với cấu trúc bằng các đoạn thép bổ sung.

Vì quy chuẩn xây dựng cho các tòa nhà công nghiệp không yêu cầu chống cháy nên các phần được kết nối trực tiếp với nhau. Các nghiên cứu đa dạng cho thấy Mies đã khám phá ra các giải pháp thay thế để củng cố độ vững chắc của tường đầu hồi, thay thế gạch bằng kính và kết nối các mặt chiếu đứng, trước khi đi đến thiết kế cuối cùng. Bằng cách làm cho gạch, thép và thủy tinh nằm trên cùng một mặt phẳng, tòa nhà của Mies đã đạt được diện mạo của một khối căng. Tòa nhà bao gồm một lò đúc kim loại ba tầng và ba tầng dành cho các phòng thí nghiệm và văn phòng nhỏ, cùng với các đường kính và cửa ra vào của tòa nhà đã tạo thành một thể thống nhất và cân đối.

Minerals & Metals Research Building (1942-43) / Ảnh: www.miessociety.org

Nhiệm vụ của Mies trong việc thiết kế khuôn viên là tạo điều kiện linh hoạt cho sự phát triển, còn nhiệm vụ trong việc phát triển các tòa nhà tiếp theo cho khuôn viên của IIT là tạo điều kiện sử dụng linh hoạt. Peter Carter đã gắn bó với Mies trong sự nghiệp từ năm 1958 cho đến khi Mies qua đời năm 1969. Là một trong những phiên dịch viên sâu sắc nhất của Mies, Carter đã mô tả vị kiến trúc sư mới nổi nhấn mạnh vào cấu trúc như một ‘cách tiếp cận hình thái học đối với sự bố trí của chức năng’.

Mies… tin rằng các yêu cầu chức năng có thể thay đổi theo thời gian, trong khi hình thức, một khi đã được thiết lập thì không dễ dàng sửa đổi. Do đó, ông đã chọn một hệ thống cấu trúc liên quan đến mức độ của các yêu cầu chức năng nói chung hơn là với các nhu cầu cá nhân và cụ thể. Và bởi vì ông tin rằng nguyên tắc linh hoạt là một nguyên tắc hiện đại, ông chỉ sửa chữa những thứ cần thiết trong các tòa nhà của mình, do đó cho phép sự linh hoạt và tự do tuyệt vời cho cả bố cục ban đầu và cả những sửa đổi trong tương lai.

Theo lời của Mies, ‘Mục tiêu của một tòa nhà đã sử dụng là liên tục thay đổi. Và mỗi lần thay đổi chúng tôi không thể phá bỏ cả tòa nhà. Đó là lý do tại sao chúng tôi đã sửa đổi công thức “hình thức theo sau chức năng” của Sullivan và xây dựng một không gian thiết thực, tiết kiệm đồng thời phù hợp với các chức năng.’

Carter tiếp tục chia sẻ rằng văn phòng của Mies bắt đầu các dự án bằng cách nhóm các chức năng thành một tập hợp các yêu cầu không gian chung. Họ đã tìm cách đáp ứng những điều này trong ‘phạm vi kinh tế khả thi của các kiểu cấu trúc cụ thể‘. Các nguyên tắc tối ưu được Mies biết đến thông qua những hiểu biết của ông về kỹ thuật và đọc sách của các nhà sinh học như France. Carter gợi ý, ‘Đạt được mức độ hoạt động tối ưu cho một chức năng là tốt nhất bởi sự phù hợp của nó bên trong một kiểu cấu trúc cụ thể.’ Ông thừa nhận rủi ro của cách tiếp cận này là nếu các chức năng có yêu cầu không gian hoàn toàn khác nhau (chẳng hạn như Hội trường ngân hàng và Tòa nhà văn phòng) bị ‘buộc vào một kiểu cấu trúc chỉ phù hợp với một chức năng duy nhất, thì một số chức năng không thể hoạt động hiệu quả‘.

Minerals & Metals Research Building (1942-43) với cấu trúc khung lưới hiện đại / Ảnh: Michael Dant

Vào giữa những năm 1920, Adolf Behne đã phân biệt chủ nghĩa duy lý với kiến trúc chức năng xung quanh vấn đề tính linh hoạt và độ bền trong cuốn Der moderne Zweckbau (Tòa nhà chức năng hiện đại) của ông, một cuốn sách mà Mies mang bên mình trong chuyến đi đến Chicago. Behne nhận thấy chủ nghĩa chức năng của Hugo Häring quá cứng nhắc trong hình thức định hình để vận hành. Thay vào đó, ông ủng hộ một kiểu mẫu theo chủ nghĩa duy lý về các dạng hình học – kỹ thuật hỗ trợ cách sử dụng và biến đổi đa dạng. Vì sự linh hoạt đó, ông đã đặt tên cho chúng là Spielzeugen (đồ chơi) và phân biệt chúng với các công cụ chỉ hỗ trợ cho mục đích cụ thể.

Giữa vô số bản in và bản vẽ được gửi cho Đại học Illinois ở Chicago sau khi Mies qua đời thì có một danh sách các dự án của ông được sắp xếp dựa trên các loại hình kiến trúc có tên là ‘Entfaltung der Struktur’ (Mở rộng cấu trúc). Danh sách viết bằng tiếng Đức bổ sung một số thông tin viết tay tiết lộ tư duy của Mies về cấu trúc và cả một số tòa nhà quan trọng. Các mục trong danh sách cho thấy kiến trúc sư đã bỏ nhiều công sức vào trình bày cấu trúc, bắt đầu từ những dự án thử nghiệm của ông sau Thế chiến thứ nhất. Những cấu trúc này sau đó đã được  các kiến trúc sư như Ludwig Hilberseimer, Peter Carter, Myron Goldsmith, Werner Blaser và một số người thân thiết với Mies học hỏi và thực hiện theo.

Trong danh sách, Mies nhóm các dự án nhà chọc trời, văn phòng và nhà đồng quê đầu tiên của ông vào đề mục ‘Developments Toward Structure’ (Sự phát triển hướng tới cấu trúc) và ngụ ý rằng chỉ nhóm tiếp theo ‘Court-houses with Steel Columns’ (Tòa nhà với cột thép) mới có thể đại diện cho ý tưởng cấu trúc toàn diện đầu tiên của ông. Barcelona Pavilion (1928-9) không được coi là đỉnh cao của loạt nhà đồng quê trước đó mà là khởi đầu cho chuỗi ‘Courthouses’ của ông.

Việc sử dụng thép cho Esters và Lange Houses (1928-30) chắc chắn xác nhận rằng, cho tới năm 1928, Mies vẫn chưa vạch ra chiến lược về cấu trúc trong các dự án sơ đồ mở những năm 1920; cũng không có sự phân chia không gian rõ ràng của Brick Country House (1924). Để bù lại, Mies đã đưa lưới cột vào các bức tường đứng tự do của Barcelona Pavilion, vay mượn khái niệm cấu trúc này từ Le Corbusier để làm cho các bức tường không đóng bất kỳ vai trò cấu trúc nào. Kết quả là, sự kết hợp này vẫn chưa được giải quyết, cả về kĩ mặt kỹ thuật lẫn hình ảnh. Mặc dù đã sử dụng hệ thống lai này cho nhiều dự án của mình trong những năm 1930, nhưng việc khám phá cấu trúc xương của ông kể từ dự án IIT mới tạo ra một giải pháp hoàn toàn khác.

Toàn bộ nhóm còn lại trong danh sách của Mies đề cập đến công trình giai đoạn ở Mỹ, đồng thời nhấn mạnh mối quan tâm của kiến trúc sư trong thời gian đó với các cấu trúc khung xương, chủ yếu được làm bằng thép.

° IIT Campus Buildings in Skeleton Construction (Khuôn viên IIT trong Cấu trúc khung xương)

° Truss Construction with Suspended Roof (Cấu trúc khung với mái treo)

° Glass Houses in Steel Construction (Nhà kính trong Cấu trúc bằng thép)

° Apartment High-Rise in Skeleton Construction with Glass Curtain Wall (Chung cư cao tầng trong Cấu trúc khung xương với Bức tường kính)

° Office Buildings in Skeleton Construction with Glass Curtain Wall (Tòa nhà văn phòng trong Cấu trúc khung xương với Bức tường kính)

° Hall Construction with Long-Span Roof (Xây dựng hội trường với mái dài)

Trong cuốn sách Mies van der Rohe at Work of 1974 (Công trình năm 1974 của Mies van der Rohe) của mình, Carter đã áp dụng và hệ thống hóa kiểu hình học này, giảm nó xuống chỉ còn ba kiểu cấu trúc: các tòa nhà khung xương thấp tầng với các vịnh lặp đi lặp lại; các tòa nhà một tầng có nhịp dài hoặc thông tầng; và các tòa nhà khung xương cao tầng.

Hai tòa nhà tiếp theo mà Mies thiết kế cho khuôn viên IIT là Tòa nhà Kỹ thuật Hóa học và Luyện kim (được thiết kế cùng Tòa nhà Nghiên cứu Khoáng sản và Kim loại năm 1941 nhưng đến năm 1947 mới hoàn thành) và Tòa Thư viện và Hành chính (thiết kế năm 1944, hoàn thành năm 1945). Những dự án này mang đến cho Mies cơ hội để phát triển thêm hệ thống kiến trúc tự phản xạ và nguyên tố này bằng cách sử dụng các thành phần tiêu chuẩn của thép, thủy tinh và gạch thường thấy trong ngành xây dựng Mỹ.

Trong khoảng hai năm làm việc cùng một nhân viên và hai học sinh khác từ năm 1943 đến 1945, Mies đã nỗ lực thông qua 450 bản vẽ ấn tượng cho Tòa Cơ khí Luyện kim và Hóa chất, 870 bản vẽ cho Tòa Thư viện và Hành chính và dần dần tạo ra các chi tiết xây dựng không chỉ thể hiện rõ hệ thống này theo cách riêng của nó mà còn thể hiện khái niệm không gian – cấu trúc của các tòa nhà nói chung. Phyllis Lambert nhớ lại: Mies và các đồng nghiệp của ông đã thiết kế đặc trưng các tòa nhà tuyến tính với các vịnh cấu trúc lặp đi lặp lại, chẳng hạn như Tòa Nghiên cứu Khoáng sản và Kim loại, như ‘Gothic’, hoặc như các khối đúc ép đùn ‘xúc xích’ có thể được cắt ra ở bất kỳ điểm nào mong muốn. Ngược lại, họ coi các tòa nhà có vịnh vuông – đặc biệt là các nhịp rõ hai chiều – là ‘cổ điển’, một lần nữa trình bày vấn đề thời kỳ Phục hưng về cách xoay một góc trong hệ thống cột.

The Metallurgical and Chemical Engineering Building và the Library and Administration Building – Hai tòa nhà chưa được xây dựng tại IIT Campus

Cả phòng học và các tòa hành chính đều cao 7,3 mét (24 feet), mặc dù tòa phía trước chỉ bao gồm một tầng duy nhất, trong khi tòa sau gồm hai tầng. Các lớp học hoặc văn phòng của cả hai tòa đều được sắp xếp dọc theo chu vi để tận dụng ánh sáng của tự nhiên. Các khu trung tâm của hai tòa này được thiết kế lối đi và hành lang rộng lớn; có các tiện nghi giống nhau như giảng đường, tủ sách, phòng vệ sinh, cầu thang, thiết bị cơ khí, xưởng, phòng thí nghiệm và nhà bếp. Nơi diễn ra các hoạt động yêu cầu ánh sáng tự nhiên được Mies đặt ở sân trong.

Tòa nhà chứa các lớp học cho ngành Kỹ thuật luyện kim và Hóa học được bố trí trên mô-đun khuôn viên của các vịnh 7,3 mét (24 foot). Nó gồm 5 vịnh chiều rộng và 12 ⅓ vịnh chiều dài, tương ứng với kích thước tổng thể là 36×90 mét (120×296 feet). Tòa Thư viện và Hành chính có 13 vịnh chiều dài, gần gấp đôi chiều rộng với kích thước tổng thể là 65×95 mét (216×312 feet). Để phù hợp với kiểu quy hoạch khác của công trình, Mies đã thiết kế một không gian mở và đơn nhất bên trong, có nhịp dài 19,5m (64 foot) mỗi 7,3m (24 foot) làm khuôn dầm thép.

Tòa Kỹ thuật Luyện kim và Hóa học cũng được cân nhắc sử dụng cấu trúc nhịp dài nhưng chỉ dành cho phòng thí nghiệm ở một đầu, nơi các dầm được xoay 90 độ so với phần còn lại của tòa nhà, tạo ra một vịnh cấu trúc lạ. Điều khó khăn là làm sao kết hợp hệ thống nhịp một chiều tuyến tính và hệ thống vịnh vuông lại với nhau trong một tòa nhà khi các phòng học cần được trang bị thiết bị chống cháy còn các phòng thí nghiệm thì không. Hệ thống chống cháy là một yếu tố quan trọng trong hầu hết các công trình của Mies, cấu trúc của nó phải được thiết kế gián tiếp thay vì trực tiếp vì thành phần thép thức cấp được thêm vào xung quanh thép bọc bê tông để phục vụ cho những mục tiêu đại diện nghiêm ngặt. Khối lượng lớn các bản vẽ cho những dự án này tiết lộ nỗ lực của Mies trong việc thể hiện một tổng thể tích hợp tất cả các khía cạnh khác nhau của hệ thống cấu trúc và cách tổ chức bên ngoài các tòa nhà.

Minerals & Metals Research Building; Sơ đồ mặt cắt và mặt bằng (1941)

Các bản vẽ Tòa Kỹ thuật Luyện kim và Hóa học của Mies chủ yếu tập trung vào ngoại thất. Ở những phần kết cấu thép được bao bọc trong bê tông để chống cháy, Mies đã thêm một lớp vỏ, bao gồm các thành phần thép hàn, cửa sổ sash và gạch nâu vàng cứng cáp. Về phần lớp học, Mies đã thêm một cột thép H nữa và giữa vịnh cấu trúc 7,3m (24 foot), tạo một nhịp thống nhất cho mặt chiếu ở trung tâm 3,7m (12 foot). Mặc dù sau đó, ông đã kéo dài những thanh thép này qua mắt cửa bằng gạch để tránh tình trạng bị nứt cho Tòa Nghiên cứu Khoáng sản và Kim loại nhưng vẫn duy trì tính liên tục theo chiều ngang ban đầu của gạch.

Lambert đã cẩn thận dựng lại trình tự những nghiên cứu thiết kế mà Mies đã đưa ra giải pháp cho ba vấn đề điển hình: sự kết hợp của hệ thống kết cấu tuyến tính và vịnh vuông, biểu hiện của hệ thống tuyến tính ở mặt chiếu và sự biến góc của vịnh vuông. Được giới thiệu lần đầu tại Tòa Kỹ thuật Luyện kim và Hóa chất, trình tự thiết kế đó sau này được tiếp tục áp dụng trong Tòa Thư viện và Hành chính và cuối cùng là Tòa Hải quân – nơi đầu tiên nhận ra hệ thống kiến tạo đang phát triển bằng thép của Mies. Trong khi những nghiên cứu đầu tiên tiết lộ mơ hồ về loại thành phần thép được sử dụng và cách thức cũng như vị trí sử dụng dụng nó, thì các giải pháp cuối đã đạt được tính toàn vẹn và tự chủ cho từng vật liệu và từng thành phần, đồng thời kết hợp chúng lại với nhau trong một tập hợp sở hữu logic nội bộ và thống nhất tổng thể của riêng nó.

Trong quá trình tìm kiếm logic mối quan hệ tổ hợp của một phần với một phần và một phần với toàn bộ, Mies đã phát triển một vai trò đặc biệt cho thanh thép phẳng tiêu chuẩn. Chúng trở thành trung gian giữa các thành phần chính: khung thép, tấm gạch và cửa sổ. Ông đã sử dụng phôi thanh để tạo ra một không gian rộng khoảng 1,27 cm (½ inch), tách các phần tử rời rạc đồng thời gắn kết chúng lại với nhau. Kỹ thuật này chắc chắn mắc nợ công nghệ công nghiệp sẵn có, nhưng nó cũng mắc nợ thứ gì đó về mối bận tâm của các nhà nguyên tố học những năm 1920 và thậm chí là các chi tiết tân cổ điển của Karl Friedrich Schinkel cũng như các chi tiết xưởng sản xuất của Bruno Paul.

Ngay từ đầu Mies đã sử dụng những mối nối (đường rãnh) mở để phân tách rạch ròi các bức tường phẳng trong lô gia của Perls House (1911-12) – tương tự một chi tiết trong công trình của Schinkel. Thậm chí chi tiết nổi tiếng của Mies với lớp vỏ kết thúc góc ‘cổ điển’ của mỗi bên trên đường trung tâm của cột góc – cũng đã từng xuất hiện trong kiến trúc Bảo tàng Altes của Schinkel. Theo quan sát của Fritz Neumeyer, Mies từng nói về triết lý của Schinkel là ‘các bộ phận tự trị tạo thành một thể thống nhất của trật tự tuyệt đối và tương đối’. Khi nghiên cứu các chi tiết xây dựng này, Mies đã sử dụng các nghiên cứu quy mô để khám phá các lựa chọn thay thế khác nhau cũng như các biến thể cho các điều kiện khác nhau. Một bản vẽ phối cảnh lớn và được kết xuất tinh xảo cũng được chuẩn bị cho góc của Thư viện, cho thấy cách kết cấu phôi thanh với dầm thép để tạo ra khung liên tục cho cả tường kính và tường gạch – bất kể vai trò kết cấu khác nhau của dầm và thanh thép.

Công sức của Mies bỏ ra cho Tòa Thư viện và Hành chính, bao gồm cả nỗ lực đáng kể để phân tách cấu trúc nội thất trong các thành phần nghiêm ngặt giống nhau. Ông đã khám phá nhiều phương tiện để sản xuất một hệ thống có liên kết mạch lạc và nhất quán bên trong cho các dầm và cột liền kề, chúng liên quan đến các vách ngăn với cấu trúc, khớp nối các lõi độc lập, các gác lửng đúc hẫng và các tòa nhà có sân vườn. Mies cung cấp sự sàng lọc cục bộ giữa các chức năng khác nhau của tòa nhà trong khi vẫn giữ được cảm giác về tổng khối lượng của tòa nhà bên trong. ‘Kích cỡ của các phòng chức năng riêng lẻ và kích cỡ của toàn bộ tòa nhà phải được cảm nhận như những trải nghiệm song song nhằm mục đích tạo ra một không gian duy nhất’, theo Carter.

Mặc dù Thư viện chưa từng được xây dựng, nhưng Tòa nhà Hải quân (Navy Building hay Alumni Memorial Hall) đã thể hiện mô hình mới mà Mies đã tìm cách tạo ra, đồng thời cung cấp bằng chứng về bảng màu vật liệu mà ông đã từng nghĩ. Trần nhà được làm bằng thạch cao với các tấm ngói âm (một loại vật liệu tương đối mới vào thời điểm đó). Sàn được lát phần lớn bằng gạch terrazzo đốm trắng và xám đen và ở một số khu vực lát loại gạch có khả năng đàn hồi. Các vách ngăn được trát và sơn màu trắng. Cửa ra vào và khung cửa được làm bằng gỗ sồi, cũng như tấm ốp của giảng đường, một lần nữa được khớp với các mối nối. Phần thép lộ ra ngoài được sơn màu đen và được áp dụng trong hầu hết các tòa nhà sau này của Mies sau này.

Navy Building/Alumni Memorial Hall – Mies van der Rohe

Khi bắt đầu thiết kế những tòa nhà đầu tiên này cho khuôn viên IIT, Mies bắt đầu phân loại các ý tưởng về cấu trúc, khám phá ẩn dụ ngôn ngữ được phổ biến trong tạp chí G đầu những năm 1920 và được Walter Curt Behrendt đề cập trong cuốn sách Modern Building (1937) của ông để kết nối Mies với Frank Lloyd Weight. Trong một cuộc phỏng vấn năm 1955, Mies giải thích:

Ý tưởng của tôi là xây dựng một ý tưởng cấu trúc… Tôi không làm kiến ​​trúc, tôi đang làm công việc mà ở đó kiến ​​trúc giống như một ngôn ngữ. Tôi nghĩ rằng bạn phải có ngữ pháp trước khi có một ngôn ngữ… Bạn có thể sử dụng nó cho những mục đích bình thường như giao tiếp. Nếu giỏi ngữ pháp, bạn có thể thuyết trình một bài văn xuôi tuyệt vời. Nếu bạn thực sự giỏi ngữ pháp, bạn có thể trở thành một nhà thơ… điều này đúng với mọi ngôn ngữ. Và tôi nghĩ rằng kiến trúc cũng vậy. Bạn phải xây dựng thứ gì đó - chẳng hạn như tạo ra một ga-ra hay một thánh đường từ nó… Chúng ta sử dụng các phương tiện giống nhau, cấu trúc giống nhau cho tất cả mọi thứ… Cấu trúc giống như ngữ pháp nền tảng… Chúng ta dùng một khung cho toàn bộ khuôn viên. Tôi đã tô màu đen cho thép. Ở dự án Farnsworth House, tôi tô nó màu trắng vì nó nằm trong một không gian xanh và mở.

Đối với một viện công nghệ, việc áp dụng kiến trúc tiện dụng của nhà máy công nghiệp như một mô hình nguyên thủy và không có tính nghệ thuật dường như là điều đương nhiên. Tuy nhiên, Mies đã đi xa hơn khi ngoại suy các vật liệu và phương pháp xây dựng công nghiệp thành một kiến trúc chung, một kiến trúc có thể so sánh với ‘thế giới lành mạnh của các tòa nhà nguyên thủy nơi mỗi cấu trúc đều có ý nghĩa‘; một kiến trúc có thể cùng thể hiện ‘sự rõ ràng của các kết nối cấu trúc’ , ‘sự thống nhất của chất liệu, cấu tạo và hình thức’, ‘sự giàu có về cấu trúc’, ‘năng lượng tích cực’, ‘vẻ đẹp tự nhiên’ và ‘sự rõ ràng tuyệt đối’.

Năm 1923, Mies đã vẽ minh họa một bài giảng với các cấu trúc ‘nguyên thủy’ của người bản địa – nhà gỗ tạm thời, lều và nhà của người Mỹ bản địa, người Eskimo và nông dân Đức. Ông coi các loại hình bản địa như vậy là mẫu mực của các hệ thống xây dựng được phát triển một cách hợp lý và hữu cơ để đáp ứng các nhu cầu cụ thể với các phương tiện sẵn có. Cũng giống như các kiến trúc sư của những ngôi đền cổ, vương cung thánh địa La Mã và nhà thờ thời trung cổ đã tạo ra những gì chúng ta có thể nghĩ là quan niệm không gian chung, hoặc tập thể, qua nhiều thế hệ nên Mies đã tận tâm phát triển, tinh chỉnh và làm rõ quan niệm không gian cũng như logic kiến trúc của xã hội công nghiệp từng tòa nhà một.

Tuy nhiên, đến năm 1924, Mies đã đưa những bài hùng biện của mình vượt ra ngoài một lý thuyết biểu đạt duy vật nghiêm ngặt để khẳng định lại quan niệm về kiến trúc như một biểu hiện nghệ thuật của tinh thần và ý chí. Ông ngày càng phản đối chủ nghĩa Ford: mặc dù chấp nhận sự hợp lý hóa và tiêu chuẩn hóa khi cần thiết, ông vẫn tin rằng chỉ riêng chúng thôi thì không đủ để đáp ứng nhiệm vụ văn hóa và tinh thần của nghệ thuật xây dựng. Mies hiểu nghệ thuật xây dựng là sự làm rõ và thể hiện các kiểu cấu trúc sinh ra từ năng suất tiềm thức của lịch sử. Bất chấp tham vọng được tuyên bố là hợp nhất chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, công trình của ông không giải quyết được những căng thẳng đó, mà coi nó như động lực thúc đẩy sự biến đổi:

Tôi nảy ra ý tưởng cấu trúc, vì Hendrik Petrus Berlage đã nói rằng không nên xây dựng bất cứ thứ gì mà thực sự không có một cấu trúc rõ ràng. Và ông ấy đã làm được điều đó. Berlage đã làm điều đó tốt đến mức tòa nhà nổi tiếng của ông ở Amsterdam - nơi khởi nguồn - mang đậm chất trung cổ dù không ở thời trung cổ. Nhưng ông ấy đã dùng gạch như cái cách người trung cổ đã dùng… Rất khó để bám vào xây dựng cơ bản rồi sau đó nâng nó lên thành một công trình kiến trúc. Tôi phải nói rõ rằng trong ngôn ngữ Anh, bạn có thể gọi mọi thứ là cấu trúc. Ở châu Âu thì không. Chúng tôi gọi cái lán là cái lán, không phải một cấu trúc. Cấu trúc tồn tại một ý tưởng triết học. Nó là một tổng thể, từ trên xuống dưới, đến chi tiết cuối cùng với nhiều ý tưởng giống nhau. Đó là những gì chúng ta gọi là một cấu trúc. Tôi biết rằng điều đó thường bị hiểu lầm. Họ nghĩ rằng tôi chỉ sử dụng dầm chữ I vì chúng đến từ xưởng… Nhưng đó không phải là ý tưởng thực sự của cấu trúc... Tôi phải nói rằng cấu trúc chỉ có thể được xây dựng trên một công trình thực sự... cấu trúc của ngày nay chứ không phải của ngày hôm qua hay của quá khứ.

Sự khác biệt giữa một cái lán và một công trình kiến trúc nhắc lại thứ bậc quen thuộc của nền văn minh và văn hóa, cơ sở vật chất và bình diện cao hơn của triết học và nghệ thuật, không thuần khiết và thuần khiết. Hilberseimer gọi kiến trúc của Mies là ‘vô hạn hơn cấu trúc… Nó phát triển ra ngoài cấu trúc và chi tiết hóa cấu trúc. Nó vượt qua vật chất và nâng giá trị tinh thần của nó, nâng cao vị trí của nó trong nghệ thuật.’ Thông qua việc thanh lọc các nguyên liệu thô, hợp lý hóa và toán học hóa các thành phần rồi lắp ráp chúng thành những khối không thể phân tách, Mies đã đạt được sự kết hợp giữa hình thức và nội dung, điều mà đối với Hilberseimer là một dấu hiệu quan trọng của các công trình tự trị, trong kiến trúc cũng như nghệ thuật. Hơn nữa, nguyên tắc thống nhất giữa các phần và thống nhất toàn bộ là một trong những yếu tố bảo đảm vẻ đẹp của truyền thống Vitruvian (đối xứng), đồng thời là một trong những dấu hiệu nổi bật của trải nghiệm thị giác và nhận thức trong tâm lý học Gestalt đầu thế kỷ XX.

Nhà nguyện tưởng niệm Robert F. Carr – Mies / Ảnh: metalocus

Bản thân Mies đã nói về việc nâng tầm xây dựng cơ bản lên cấu trúc và, như chúng ta đã thấy trước đó, ông thích thuật ngữ Baukunst (nghệ thuật xây dựng) hơn Architektur (kiến trúc) vì khả năng ám chỉ sự biến đổi như vậy. Với vai trò là một kiến trúc sư, ông nhận thấy nhiệm vụ của mình không phải là phát minh ra các hình thức mà là đưa ra biểu hiện cho các hình thức và cấu trúc đã tồn tại bên trong những gì sẵn có. Như trong một bài giảng ông đã ghi chép không ghi ngày tháng được trình bày ở Chicago: ‘Việc phát minh ra hình thức rõ ràng không phải là nhiệm vụ của nghệ thuật xây dựng. Nghệ thuật xây dựng ngày càng khác biệt. Cái tên tuyệt vời của nó đã nói rõ rằng tòa nhà là sự hoàn thiện của nội dung và nghệ thuật tự nhiên của nó‘.

Điều này tương tự như lý thuyết của Karl Bötticher về mối quan hệ của các hình thức kiến trúc nghệ thuật (Kunstformen) với các hình thức kỹ thuật của xây dựng (Kernformen) vào thế kỉ XIX. Mặc dù lý thuyết biểu diễn kiến tạo của Bötticher đã không còn được những người ủng hộ ‘neues bauen’ tán thành trong những năm 1920, Mies vẫn giữ một bản sao luận thuyết lớn của Bötticher – Die Tektonik der Hellenen (Kiến trúc sư của người Hy Lạp, 1852) trong căn hộ ở Chicago của mình. Giống Bötticher nhưng sử dụng ngôn ngữ biểu đạt tự nhiên thay vì biểu diễn, Mies đã tìm cách làm lại các hình thức kỹ thuật của cấu trúc công nghiệp – để ‘làm chủ’ chúng, theo cách nói của Romano Guardini – với các kỹ thuật thuộc về nghệ thuật xây dựng. Khi làm như vậy, Mies tìm cách làm cho chúng rõ ràng theo nghĩa mà ông hiểu từ Berlage: nghĩa là làm cho chúng biểu hiện rõ ràng và hợp lý đối với người quan sát.

Sự học hỏi này đã đem lại cho kiến trúc và tư duy của Mies một đặc điểm hai mặt và biến đổi không ngừng, mà bản thân kiến trúc sư ám chỉ để phân biệt giữa trật tựtổ chức:

Tổ chức để xác định chức năng. Thứ tự để truyền đạt ý nghĩa. Nếu chúng ta cung cấp cho mỗi thứ những gì thuộc về bản chất của chúng, thì chúng sẽ dễ dàng rơi vào đúng vị trí của mình; chỉ ở đó chúng mới có thể dễ dàng trở thành chính mình và hoàn toàn nhận ra chính mình. Sự hỗn loạn mà chúng ta đang sống sẽ nhường chỗ cho trật tự và thế giới sẽ lại trở nên có ý nghĩa và tươi đẹp.

Tuy nhiên, ngay cả ở đây, trục lịch sử hoặc trục điện tử trong cách tiếp cận nhất nguyên của Mies trong câu cuối cùng gợi ý về sự trùng hợp tiềm năng giữa hiện đại và cổ xưa, hợp thời và vượt thời gian. Hồi tưởng mười năm đầu tiên xây dựng khuôn viên trường, ông tuyên bố rằng kiến ​​trúc của mình là ‘ vừa cấp tiến vừa bảo thủ’. Ông giải thích,

Nó là cấp tiến khi chấp nhận các động lực thúc đẩy và duy trì thời đại của chúng ta. Khoa học và Công nghệ. Nó có tính khoa học nhưng không phải là khoa học. Nó sử dụng các phương tiện công nghệ nhưng nó không phải là công nghệ. Nó là bảo thủ vì nó không chỉ quan tâm đến mục đích mà còn có một ý nghĩa, nó không chỉ quan tâm đến một chức năng mà còn quan tâm đến một biểu hiện. Nó mang tính bảo thủ vì nó dựa trên các quy luật vĩnh cửu của kiến ​​trúc: Trật tự, Không gian và Tỷ lệ.

Đây là động cơ năng động của Baukunst: khai thác năng lượng tiến hóa của công nghệ để thúc đẩy kiến trúc liên tục tiến lên, đồng thời kéo nó trở lại nguồn gốc, khám phá các quy luật vĩnh cửu trong cái mới. Mặc dù có ảnh hưởng nhất định bởi quá khứ, đặc biệt là quá khứ cổ điển, trung cổ và nguyên thủy nhưng không bị ràng buộc bởi nó, Mies đã trình bày lại công trình xây dựng mới về tiềm năng của nó đối với trật tự hệ thống, tạo ra không gian và biểu hiện của tỷ lệ. Chắt lọc cái rõ ràng khỏi cái không rõ ràng, chuyển cái thấp thành cái cao, Mies đã xây dựng những hình ảnh kiến trúc tự quy chiếu thông qua việc tái trình bày cấu trúc bằng kịch bản. Sự bất biến này đã từng là lịch sử và tiền sử – phổ quát và bao trùm trong tính tức thời và cụ thể của thời điểm này.

Kết hợp thêm ý nghĩa của cấu trúc, Mies đã ám chỉ đến một khái niệm rộng hơn nhiều vào năm 1926. Trong một bài giảng, ông đã bao quát ‘cấu trúc xã hội’, ‘cấu trúc kinh tế’, ‘cấu trúc thời kỳ của chúng ta’ và ‘sự tồn tại của chúng ta’. Kết hợp triết học, lịch sử và thậm chí cả vũ trụ học, Mies viện dẫn lịch sử kiến trúc và thành phố để chứng minh rằng hiện tại đã ‘mất đi sự hiểu biết lịch sử về sự phụ thuộc lẫn nhau thực sự của mọi thứ và khả năng thể hiện cấu trúc của chính nó’ . Trong một bức thư viết năm 1936 gửi tới Willard E Hotchkiss, Mies đã nói rằng giá trị chiến lược của việc thể hiện cấu trúc này nằm ở việc chuẩn bị nền tảng cho cái mà đôi khi ông gọi là ‘trận chiến của tinh thần’. Ông tuyên bố: ‘Hãy để cấu trúc của kỷ nguyên chúng ta được khám phá để làm rõ những giả định và khả năng được đưa ra cho công trình văn hóa của chúng ta‘. Một năm sau, ông đi sâu hơn khi nói rằng việc làm rõ như vậy đóng một vai trò quan trọng trong quá trình thay đổi lịch sử, hứa hẹn sẽ thay thế giai đoạn chuyển tiếp hiện nay: ‘Tôi đã cam kết phát triển một chương trình giảng dạy thể hiện nguyên tắc trật tự rõ ràng này, không có chỗ cho sự sai lệch và thông qua cấu trúc có hệ thống của nó sẽ dần dần làm rõ các mối liên hệ văn hóa và tâm linh bên trong (Zusammenhänge).’ Trong lời tựa mà Werner Blaser viết cho bức chân dung được ủy quyền Mies van der Rohe: The Art of Structure (1965), Mies nhắc lại: ‘Kiến trúc đích thực luôn luôn khách quan và là sự thể hiện cấu trúc bên trong của thời đại chúng ta, từ đó nó hình thành.’

Chủ đề về hỗn hợp lẫn lộn đã được các nhà lý thuyết hiện đại và nhà sử học từ Hilberseimerto Sigfried Giedion, cũng như nhà lý thuyết văn hóa Walter Benjamin, tất cả đều hiểu hiện tại là một giai đoạn chuyển đổi được đánh dấu bởi sự không chắc chắn và sự kết hợp chưa được giải quyết giữa cái mới và cái cũ, biểu hiện xác thực và không xác thực, đôi khi ngay cả trong cùng một công trình kiến trúc. Năm 1923, Mies trở thành một nhà phê bình thẳng thắn đối với chủ nghĩa lịch sử và thúc đẩy quá trình chuyển đổi bằng cách ‘vượt ra khỏi những đống rác rưởi lịch sử và thẩm mỹ của châu Âu để trở nên đơn giản và có mục đích’. Tương tự, một vài năm sau, Benjamin đặt ra vấn đề về hình thức cho nghệ thuật mới và bằng kiến trúc mở rộng, ông cho rằng:

Khi nào và như thế nào thì thế giới của hình thức mới xuất hiện mà không có sự trợ giúp của chúng ta? Chẳng hạn như trong cơ khí, trong phim, trong chế tạo máy hay trong vật lý mới. Và điều gì đã khuất phục chúng ta, làm cho chúng ta thấy rõ được bản chất của chúng là gì? Khi nào chúng ta sẽ đạt đến một trạng thái xã hội trong đó những hình thức này, hoặc những hình thức phát sinh từ chúng tự bộc lộ với chúng ta như những hình thức tự nhiên?

Mục tiêu hướng tới sự rõ ràng của hình thức và cấu trúc của Mies có hai thời điểm: một thời điểm về mặt hình thức, thời điểm kia về mặt lịch sử. Cả hai đều được củng cố bởi một lý thuyết về nhận thức thị giác. Bằng cách vay mượn nguyên tắc biểu hiện từ nghệ thuật thị giác, nơi nó được đưa ra như một cơ sở chân thực cho sản xuất văn hóa hơn là biểu diễn (mimesis); và từ sinh học, nơi các lý thuyết về sự phát sinh cho thấy sự xuất hiện của các sinh vật mới không được các lý thuyết về biến đổi tính đến, ý tưởng hữu cơ của thiết kế như Gestaltung (sáng tạo hình thức) kế thừa sự phụ thuộc vào các đặc điểm trực quan như thước đo của các kế hoạch và bản chất bên trong. Bị ảnh hưởng bởi khoa học mới về sinh lý học vào đầu thế kỷ 19, cách diễn đạt này cho rằng đặc điểm, mong muốn và động lực bên trong có thể đọc được từ các đặc điểm bên ngoài, đặc biệt là từ hình dáng của một cái đầu hoặc vật thể. Một trạng thái trừu tượng của thị giác mà đặc quyền cho cấu trúc bên ngoài đã trở thành nền tảng của tội phạm học nhưng cũng thể hiện rõ ràng trong định hướng thuần túy nhất của nghệ thuật và kiến trúc tân cổ điển. Cả hai đều hoạt động tích cực trong văn hóa thiết kế vào khoảng năm 1900, khi sự rõ ràng về hình thức và sự đơn giản về hình học được dùng làm thước đo chất lượng hoặc thiết kế tốt. Điều này đã được Paul Schultze-Naumburg mở rộng thành toàn bộ nhân học văn hóa của hình thức tốt trong bộ sách ‘Kulturarbeiten’ (Các công trình văn hóa) của ông, bao gồm các cấu trúc được thiết kế. Ông đã sử dụng phương pháp so sánh để phân biệt hình thức tốt với những hỗn hợp nhầm lẫn về hình thức, kiểu dáng và chức năng.

Cùng lúc, hình học nguyên tố cũng được sử dụng để ước định sự hoàn hảo của các hình thức kỹ thuật. Vào khoảng giữa những năm 1920, Lindner đã dựa vào trạng thái thị giác này để trình bày các ví dụ về cấu trúc thực dụng từ khắp nơi trên thế giới và tất cả các giai đoạn lịch sử như một ví dụ về hình thức tốt. Việc phân loại các nhà kho, trạm điện, máy đo khí và tháp nước của ông đã cung cấp các ví dụ về Gestalten (các hình thái) tốt thể hiện các phẩm chất của sự gắn kết, tích hợp và minh bạch. Như chúng ta đã thấy, một số trong số này đã được tái bản trong những số đầu của tạp chí G, nơi mà chương trình làm sáng tỏ ý nghĩa: các công trình của ngành công nghiệp và nghệ thuật mang đến hình thức mới đồng thời cũng là hình thức tốt. Quá trình giải thích làm rõ mối liên hệ giữa cái mới và cái tốt đã trở thành trọng tâm sứ mệnh của tạp chí G, giờ đây được ngoại suy cho nền văn hóa vật chất nguyên tố mà những người đóng góp cho nó tin rằng đang diễn ra xung quanh họ và thông qua các tác phẩm của họ.

Trong khi diễn ngôn này có khuynh hướng hình thức đặc quyền, cấu trúc cũng được đánh giá trên những cơ sở tương tự, từ Schinkel đến Louis Sullivan, Gustave Eiffel (1832-1923) đến Eugène Freysinnet (1879-1962). Trong một bài báo được xuất bản trong tập 5/6 của tạp chí G về dạng thuần túy là dạng tự nhiên, các kích thước của hình thức và cấu trúc được kết hợp với nhau trong quang học của tia X, kết hợp gián tiếp hình thức rõ ràng với kết cấu trực tiếp. Bằng cách tạo ra cấu trúc và vỏ bọc đồng phẳng, các tòa nhà của Mies tại IIT như Nhà nguyện tưởng niệm Robert F. Carr của Thánh Saviour (1949-52) đã vận hành phương thức nhận thức trực quan này ở mặt căng của vỏ tòa nhà. Những bức tường có mặt ngoài hoành tráng trong cấu trúc chọc trời của Mies đã cung cấp thêm một hình ảnh ngẫu nhiên về cấu trúc mở thông qua nhận thức, trong chuyển động và theo thời gian, dao động giữa độ mờ và độ trong suốt, bộc lộ và che giấu, hình thức và cấu trúc.

Nhà nguyện tưởng niệm Robert F. Carr – Mies / Ảnh: metalocus

I BÀI VIẾT DO BBARCHITECTS DỊCH VÀ BIÊN TẬP TỪ SÁCH: MIES / TÁC GIẢ: Detlef Mertins

Share post:

Comments ( 12.821 )